Thị trường ngày 19/7: Giá dầu và vàng duy trì ổn định, đồng thấp nhất 3 tháng

Chốt phiên giao dịch ngày 18/7, giá dầu và vàng duy trì ổn định, trong khi đồng thấp nhất 3 tháng, nhôm thấp nhất 2,5 tháng, quặng sắt, thép cây, cao su, đường... đồng loạt giảm.

Giá dầu duy trì vững

Giá dầu duy trì vững, khi các nhà đầu tư đón nhận những thông tin trái chiều về nhu cầu dầu thô, với những lo ngại về suy thoái kinh tế tại Mỹ, cùng với những kỳ vọng ngày càng tăng về Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ sớm cắt giảm lãi suất.

Chốt phiên giao dịch ngày 18/7, dầu thô Brent tăng 3 US cent lên 85,11 USD/thùng, trong khi dầu WTI giảm 3 US cent xuống 82,82 USD/thùng. Cả hai loại dầu đều tăng trong phiên trước đó.

Số người Mỹ nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp trong tuần trước đã tăng nhiều hơn so với dự kiến, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp ban đầu của tiểu bang tăng 20.000 lên mức điều chỉnh theo mùa là 243.000 trong tuần kết thúc ngày 1/7/2024.

Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng 4%

Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng 4%, sau khi giảm xuống mức thấp nhất 10 tuần trong phiên trước đó, do tồn trữ trong tuần trước thấp hơn so với dự kiến.

Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn New York tăng 9 US cent tương đương 4,4% lên 2,125 USD/mmBTU.

Giá vàng giảm

Giá vàng giảm song vẫn dao động xung quanh mức cao kỷ lục trong phiên trước đó, do kỳ vọng việc cắt giảm lãi suất vào tháng 9/2024 từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.

Vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm 0,3% xuống 2.451,21 USD/ounce. Giá vàng đạt mức cao kỷ lục 2.483,6 USD/ounce trong phiên ngày 17/7/2024. Vàng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn New York giảm 0,1% xuống 2.456,4 USD/ounce.

Giá đồng thấp nhất 3 tháng, nhôm thấp nhất 2,5 tháng

Giá đồng giảm xuống mức thấp nhất 3 tháng mà không có kích thích mới từ cuộc họp chính trị quan trọng tại Trung Quốc và các nhà đầu tư chuyển đặt cược từ đồng sang vàng về việc cắt giảm lãi suất trước đó của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.

Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 2,6% xuống 9.385 USD/tấn. Trong đầu phiên giao dịch, giá đồng giảm xuống 9.379,5 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 12/4/2024.

Ngoài ra, giá đồng giảm do nhập khẩu đồng của Trung Quốc trong tháng 6/2024 giảm xuống mức thấp nhất 14 tháng. Đồng thời, tồn trữ đồng tại London tăng lên mức cao nhất 33 tháng (221.100 tấn).

Giá nhôm trên sàn London giảm 0,8% xuống 2.383 USD/tấn, trong phiên có lúc chạm 2.380 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 3/4/2024.

Giá quặng sắt và thép cây giảm

Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm, chịu áp lực giảm bởi thị trường thép tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – suy yếu, trong khi các nhà đầu tư chờ đợi thông tin chi tiết về các biện pháp kích thích có thể có từ Hội nghị toàn thể lần thứ 3 tại Bắc Kinh.

Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Đại Liên giảm 0,9% xuống 811,5 CNY (111,86 USD)/tấn, trong đầu phiên giao dịch chạm 798 CNY/tấn - thấp nhất kể từ ngày 26/6/2024.

Trong khi đó, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Singapore tăng 0,67% lên 105,65 USD/tấn.

Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây và thép cuộn cán nóng giảm 0,8%, thép cuộn giảm gần 1,2% và thép không gỉ giảm 0,2%.

Thị trường thép trên sàn Thượng Hải chịu áp lực giảm bởi nhu cầu chậm lại do nhiệt độ và mưa lớn tại một số khu vực.

Giá cao su tại Nhật Bản giảm

Giá cao su tại Nhật Bản giảm, chịu áp lực giảm bởi triển vọng căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc gia tăng, cùng với đó là đồng JPY tăng mạnh cũng gây áp lực thị trường.

Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn Osaka (OSE) giảm 5,6 JPY tương đương 1,73% xuống 317,2 JPY (2,03 USD)/kg.

Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 90 CNY tương đương 0,62% lên 14.585 CNY (1.999,31 USD)/tấn.

Giá cao su kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Singapore tăng 1% lên 163,4 US cent/kg.

Giá cà phê không thay đổi tại Việt Nam, đồng loạt giảm tại Indonesia, London và New York

Hoạt động giao dịch cà phê tại Việt Nam vẫn chậm, trong bối cảnh nguồn cung thấp và giá chào bán cao, trong khi giá cà phê tại Indonesia giảm do nguồn cung tăng.

Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) chào bán ở mức cộng 500 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn London. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 127.000-127.700 VND (5-5,02 USD)/kg, không thay đổi so với 1 tuần trước đó.

Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 600 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn London, giảm so với mức cộng 750 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 8/2024 một tuần trước đó.

Tại London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 91 USD tương đương 2% xuống 4.479 USD/tấn, giá cà phê đạt mức cao kỷ lục 4.681 USD/tấn trong tuần trước.

Tại New York, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 0,9% xuống 2,409 USD/lb, tuần trước giá cà phê đạt mức cao 2,5 năm (2,553 USD/lb).

Giá đường tiếp đà giảm

Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn ICE giảm 0,42 US cent tương đương 2,2% xuống 18,94 US cent/lb.

Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn London giảm 1,8% xuống 545,5 USD/tấn.

Giá đậu tương tăng, ngô và lúa mì giảm

Giá đậu tương trên sàn Chicago tăng, do hoạt động mua vào kiếm lời và các dấu hiệu nhu cầu xuất khẩu mới sau khi giá giảm xuống mức thấp nhất 4 năm trong đầu phiên giao dịch.

Giá ngô giảm, do thời tiết thuận lợi thúc đẩy năng suất cây trồng tại Mỹ và giá lúa mì giảm xuống mức thấp nhất gần 4 tháng.

Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2024 tăng 2 US cent lên 10,43 USD/bushel, sau khi giảm xuống 10,31-3/4 USD/bushel – thấp nhất kể từ ngày 12/10/2020. Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2024 giảm 6-3/4 US cent xuống 4,05 USD/bushel và giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 4 US cent xuống 5,35-1/4 USD/bushel.

Giá gạo Thái Lan thấp nhất 8 tháng, giảm tại Ấn Độ, không thay đổi tại Việt Nam

Giá xuất khẩu gạo Ấn Độ giảm, do kỳ vọng New Delhi có thể nới lỏng các hạn chế xuất khẩu sau khi tồn kho đạt mức cao kỷ lục, trong khi giá gạo Thái Lan giảm xuống mức thấp nhất 8 tháng, do nhu cầu giảm và nguồn cung tăng.

Tại Ấn Độ - nước xuất khẩu gạo hàng đầu, giá gạo 5% tấm ở mức 537-543 USD/tấn, giảm so với 539-545 USD/tấn 1 tuần trước đó.

Đối với loại 5% tấm, giá gạo Việt Nam ở mức 565-570 USD/tấn, không thay đổi so với 1 tuần trước đó, khi giá chạm xuống mức thấp nhất gần 1 năm.

Tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm ở mức 570 USD/tấn – thấp nhất kể từ đầu tháng 11/2023, giảm so với 570-575 USD/tấn 1 tuần trước đó.

Giá dầu cọ tăng phiên thứ 3 liên tiếp

Giá dầu cọ tại Malaysia tăng phiên thứ 3 liên tiếp, được thúc đẩy bởi giá dầu thực vật trên sàn Đại Liên và Chicago tăng mạnh.

Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn Bursa Malaysia tăng 6 ringgit tương đương 0,15% lên 3.938 ringgit (844,16 USD)/tấn.

Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 19/7

Minh Quân

Nhịp sống thị trường


Tìm Đại lý phân phối, Nhà cung cấp nổi bật