Thị trường ngày 8/12: Giá dầu thấp nhất 6 tháng, khí tự nhiên, vàng, đồng và sắt thép đồng loạt tăng
Giá dầu thấp nhất 6 tháng
Giá dầu giảm xuống mức thấp nhất 6 tháng, khi các nhà đầu tư lo ngại nhu cầu năng lượng tại Mỹ và Trung Quốc chậm lại, cùng với đó là sản lượng từ Mỹ vẫn ở gần mức cao kỷ lục.
Chốt phiên giao dịch ngày 7/12, dầu thô Brent giảm 25 US cent xuống 74,05 USD/thùng và dầu thô Tây Texas WTI giảm 4 US cent xuống 69,34 USD/thùng. Cả hai loại dầu đều chạm mức thấp nhất kể từ cuối tháng 6/2023. Như vậy, giá dầu giảm khoảng 10%, kể từ khi OPEC+ công bố cắt giảm sản lượng tự nguyện 2,2 triệu thùng/ngày trong quý 1/2024.
Số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết, sản lượng dầu tại Mỹ vẫn đạt gần mức cao kỷ lục, hơn 13 triệu thùng/ngày (bpd).
Đồng thời, tồn trữ xăng của Mỹ trong tuần trước tăng 5,4 triệu thùng lên 223,6 triệu thùng, hơn 5 lần so với dự kiến tăng 1 triệu thùng.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng
Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng khoảng 1% từ mức thấp nhất 3 tháng trong phiên trước đó, do tồn trữ thấp hơn so với dự kiến, sản lượng hàng ngày giảm và lượng khí đốt kỷ lục chuyển đến các nhà máy xuất khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG).
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn New York tăng 1,6 US cent tương đương 0,6% lên 2,585 USD/mmBTU. Trong phiên trước đó, giá khí tự nhiên chạm mức thấp nhất kể từ ngày 6/9/2023.
Giá vàng tiếp đà tăng
Giá vàng tăng, do đồng USD suy yếu trước số liệu bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ, khi các thương nhân kỳ vọng dấu hiệu thị trường lao động giảm sẽ thúc đẩy cơ hội cắt giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ vào đầu tháng 3/2024.
Vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 0,3% lên 2.029,92 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn tháng 2/2024 trên sàn New York giảm 0,1% xuống 2.046,4 USD/ounce.
Giá đồng tăng, nhôm thấp nhất hơn 3 tháng, kẽm thấp nhất hơn 1 tháng, chì thấp nhất 6 tháng
Giá đồng trên sàn London tăng, rời khỏi chuỗi giảm 3 phiên liên tiếp, được thúc đẩy bởi số liệu xuất khẩu của Trung Quốc tăng mạnh và đồng USD suy yếu, song mức tăng bị hạn chế bởi những yếu tố khác.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,7% lên 8.343,5 USD/tấn.
Tuy nhiên, tính từ đầu năm đến nay giá đồng giảm 0,3%, do sự phục hồi không đồng đều sau đại dịch của nước tiêu thụ kim loại hàng đầu – Trung Quốc, lo ngại tăng trưởng kinh tế ở những nơi khác và lãi suất cao.
Trong khi đó, giá nhôm trên sàn London giảm 0,6% xuống 2.135 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 21/8/2023 (2.131 USD/tấn).
Giá kẽm giảm 1% xuống 2.404 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 1/11/2023.
Giá chì giảm 0,5% xuống 2.019,5 USD/tấn, sau khi chạm 2.016 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 8/6/2023.
Giá quặng sắt và thép tiếp đà tăng
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng, khi những người tham gia thị trường phản ứng với những cập nhật tích cực từ các nước sản xuất lớn và nhu cầu tăng mạnh.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn Đại Liên tăng 3,1% lên 945 CNY (131,95 USD)/tấn.
Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn Singapore tăng 0,5% lên 131,65 USD/tấn.
Nhập khẩu quặng sắt của Trung Quốc trong 11 tháng đầu năm 2023 tăng 6,2% so với cùng kỳ năm ngoái, lên 1,1 tỉ tấn, trong đó nhập khẩu tháng 11/2023 tăng 3,4% so với tháng trước đó.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 1,6%, thép cuộn cán nóng tăng 2,5%, thép cuộn tăng 1,3% và thép không gỉ tăng 1,1%.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm
Giá cao su tại Nhật Bản giảm, chịu áp lực giảm bởi đồng JPY tăng mạnh và giá dầu thô giảm xuống mức thấp nhất gần 6 tháng, song mức giảm được hạn chế bởi số liệu xuất khẩu tích cực của Trung Quốc.
Giá cao su kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Osaka giảm 2,9 JPY tương đương 1,2% xuống 240,6 JPY (1,64 USD)/kg.
Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 150 CNY tương đương 1,1% lên 13.370 CNY (1.867,94 USD)/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn Singapore giảm 0,1% xuống 141,5 US cent/kg.
Xuất khẩu của Trung Quốc trong tháng 11/2023 tăng – lần đầu tiên – trong 6 tháng, cho thấy các nhà máy tại nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới đã hấp dẫn khách hàng thông qua chiết khấu giá, khi nhu cầu sụt giảm kéo dài.
Giá cà phê không thay đổi tại Việt Nam và Indonesia, tăng tại New York và London
Giá cà phê tại Việt Nam tăng, do nhu cầu cao và nguồn cung hạn chế, khi vụ thu hoạch chưa đạt đỉnh điểm, trong khi giá cà phê tại Indonesia không thay đổi trước khi kết thúc mùa vụ.
Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) chào bán ở mức tương tự so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn London. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 59.900-60.500 VND (2,47-2,49 USD)/kg, tăng nhẹ so với 57.800-59.000 VND/kg 1 tuần trước đó.
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 600 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn London, không thay đổi so với 1 tuần trước đó.
Tại New York, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2024 tăng 2,25 US cent tương đương 1,3% lên 1,775 USD/lb, sau khi giảm 4,6% trong phiên trước đó.
Tại London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2024 tăng 1% lên 2.589 USD/tấn.
Giá đường tăng
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn ICE tăng 0,1% lên 23,03 US cent/lb, sau khi giảm xuống mức thấp nhất 4 tháng (22,8 US cent/lb).
Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn London tăng 0,4% lên 646,1 USD/tấn.
Giá đậu tương, lúa mì và ngô tăng
Giá đậu tương tại Mỹ tăng do doanh số xuất khẩu mới tăng và triển vọng tân Tổng thống Argentina, Javier Milei phá giá đồng tiền quốc gia sau khi ông nhậm chức vào cuối tuần này.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 1/2024 tăng 16-1/4 US cent tương đương 1,3% lên 13,11-3/4 USD/bushel. Giá ngô kỳ hạn tháng 3/2024 tăng 3-3/4 US cent tương đương 0,8% lên 4,88 USD/bushel. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 3/2024 tăng 8-3/4 US cent tương đương 1,4% lên 6,42-1/4 USD/bushel.
Giá gạo giảm tại Ấn Độ và Thái Lan, không thay đổi tại Việt Nam
Giá gạo đồ xuất khẩu từ trung tâm hàng đầu Ấn Độ giảm, do nhu cầu giảm ngay cả khi nước xuất khẩu hàng đầu phải đối mặt với sự gián đoạn tại 1 cảng lớn do bão, trong khi giá gạo tại Thái Lan và Việt Nam tăng cao.
Tại Ấn Độ - nước xuất khẩu gạo hàng đầu, giá gạo 5% tấm giảm xuống 497-505 USD/tấn, so với 500-507 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Đối với loại 5% tấm, giá gạo Việt Nam ở mức 655-665 USD/tấn, không thay đổi so với 1 tuần trước đó.
Tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm giảm nhẹ xuống 620-625 USD/tấn so với 630 USD/tấn 1 tuần trước đó, do nhu cầu chuyển sang các nước Đông Nam Á khác.
Giá dầu cọ giảm phiên thứ 5 liên tiếp
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm phiên thứ 5 liên tiếp – chuỗi giảm dài nhất kể từ giữa tháng 9/2023, theo xu hướng giá dầu thực vật khác và giá dầu thô suy giảm, song đồng ringgit suy yếu đã hạn chế đà giảm giá.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 2/2024 trên sàn Bursa Malaysia giảm 20 ringgit tương đương 0,54% xuống 3.699 ringgit (791,74 USD)/tấn. Trong đầu phiên giao dịch chạm 3.641 ringgit/tấn – thấp nhất hơn 6 tuần.
Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 8/12
TIN CŨ HƠN
- Giá nhà chung cư đang ở mức rất cao
- Lãi suất ngân hàng chưa ngừng giảm
- Thị trường ngày 5/12: Giá dầu, vàng, đồng và sắt thép đồng loạt giảm, đường thô thấp nhất 3,5 tháng
- Giá vàng trong nước sáng 4/12 tăng vọt lên gần 75 triệu đồng/lượng
- Thị trường ngày 1/12: Dầu giảm hơn 2%, vàng cũng giảm, giá cà phê tăng 7%, gạo cao nhất 3 tháng
- Thị trường ngày 30/11: Dầu tăng 2%, vàng cao nhất 7 tháng
- 3 yếu tố quan trọng người mua nhà cần lưu ý để tránh rủi ro
- Giá vàng SJC tăng vọt vượt mốc 74 triệu đồng/lượng, chính thức lập đỉnh mới
- Lịch sự kiện và tin vắn chứng khoán ngày 29/11
- Thị trường ngày 24/11: Giá vàng tăng trong khi dầu, cao su, cà phê, quặng sắt đồng loạt giảm