Ngân hàng đang nỗ lực thúc đẩy lưu thông dòng vốn

Đợt dịch COVID-19 lần thứ 4 đã đặt ra câu hỏi về mối quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng cũng như vai trò của hệ thống ngân hàng trong việc giúp đỡ khu vực doanh nghiệp phục hồi.

Theo TS Bùi Duy Tùng, giảng viên kinh tế Đại học RMIT, các NHTM Việt Nam đang nỗ lực hoàn thành vai trò của họ trong việc thúc đẩy lưu thông dòng vốn, hỗ trợ doanh nghiệp duy trì hoạt động.

Dưới đây là nội dung cuộc trao đổi giữa PV Thời báo Ngân hàng với TS Bùi Duy Tùng xung quanh vấn đề này.

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang nỗ lực vượt qua đại dịch, ông đánh giá thế nào về vai trò của hệ thống ngân hàng trong việc hỗ trợ duy trì hoạt động của các doanh nghiệp?

Cuộc khủng hoảng COVID-19 là một cuộc khủng hoảng kép, khác hẳn với các cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính đã xảy ra trước đây. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đồng thuận rằng cuộc khủng hoảng lần này có thể tồi tệ hơn cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu năm 2008 do nó tác động đến cả phía cung và cầu của nền kinh tế.

Tiến sĩ Bùi Duy Tùng

Trong bối cảnh khủng hoảng mới, vai trò của ngân hàng cũng thay đổi so với cuộc khủng hoảng trước đó. Nguyên nhân chính của cuộc suy thoái năm 2008 là hoạt động cho vay dưới chuẩn của các ngân hàng. Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng lần này, hệ thống ngân hàng không còn là "tội đồ" nữa mà trở thành một phần của giải pháp giúp vực dậy nền kinh tế sau đại dịch.

Hệ thống ngân hàng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, giúp lưu thông vốn từ nơi thừa vốn (người có tiền nhàn rỗi) đến khu vực thiếu vốn (người đi vay). Trong cơ cấu nguồn vốn bên ngoài của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì nợ vay ngân hàng chiếm một phần không nhỏ.

Trong khủng hoảng, vai trò cung cấp vốn cho các doanh nghiệp của hệ thống ngân hàng cần phải được đề cao hơn nữa. Doanh thu của khu vực doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề khiến họ phải tìm kiếm các nguồn vốn bên ngoài, trong đó có vốn vay để tiếp tục hoạt động. Ngoài ra, đại dịch cũng khiến cho các khoản đầu tư khác trở nên rủi ro hơn, nhà đầu tư sẽ tìm đến các khoản đầu tư an toàn như tiết kiệm để bảo toàn vốn.

Các NHTM Việt Nam đang nỗ lực hoàn thành vai trò của họ trong việc thúc đẩy lưu thông vốn. Tuy nhiên, một số yếu tố khách quan của thị trưởng đã làm cho dòng chảy vốn khó khăn hơn: Đầu vào nguyên nhiên vật liệu khan hiếm do giãn cách không lưu thông được; sản xuất bị đình trễ, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được, tồn kho tăng; công nợ nhiều, nhà máy, xưởng sản xuất cầm chừng, vừa làm vừa chống dịch; các công trường, công trình ngưng hoạt động, chi phí không giảm mà còn tăng cao...

Ngành Ngân hàng đã có những nỗ lực ra sao để hỗ trợ doanh nghiệp kể từ khi đại dịch bùng phát, đặc biệt là thông qua các chính sách ưu đãi về giãn, hoãn nợ?

Trước ảnh hưởng của dịch COVID-19, ngày 13/3/2020, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư 01/2020/TT-NHNN để hỗ trợ các doanh nghiệp gặp khó khăn. Ngày 02/4/2021, NHNN đã ban hành Thông tư 03/2021/TT-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 của Thống đốc NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.

Điều này cho thấy NHNN đã chủ động nắm bắt tình hình, ban hành chính sách chỉ đạo triển khai kịp thời, quyết liệt các giải pháp hỗ trợ khách hàng khắc phục khó khăn do ảnh hưởng bởi dịch COVID-19. Tuy nhiên, tốc độ diễn tiến quá nhanh của dịch bệnh khiến cho các chính sách phải thay đổi liên tục để phù hợp hơn với tình hình mới. Đây là một thách thức rất lớn nhưng với tinh thần chủ động, NHNN có thể sẽ ban hành các thông tư mới để hỗ trợ các doanh nghiệp.

Các ngân hàng đã luôn chia sẻ với khách hàng và cộng đồng để cùng nhau vượt qua khó khăn

Các ngân hàng thương mại (NHTM) sẽ cụ thể hóa các nội dung tại thông tư để triển khai áp dụng cho các đối tượng khách hàng thực sự bị ảnh hưởng, nhằm hỗ trợ khách hàng của họ một cách tốt nhất. Việc chấp nhận giảm lợi nhuận cũng sẽ căn cứ vào thực lực của từng NHTM. Trong thời gian qua các NHTM đã rất chia sẻ với khách hàng và cộng đồng, thể hiện bằng các gói chương trình chính sách lãi suất ưu đãi, miễn giảm lãi cho khách hàng bị ảnh hưởng, đóng góp bởi hiện vật trang thiết bị y tế và tài chính hỗ trợ công tác phòng chống dịch.

Ví dụ, ngân hàng A giảm 1% lãi suất thì lợi nhuận có thể giảm 5%, nhưng đối với ngân hàng B thì lợi nhuận có thể giảm đến 10%. Điều này góp phần giải thích tại sao một số ngân hàng rất chủ động trong việc miễn giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng, và một số ngân hàng khác thì thận trọng hơn.

Ông có suy nghĩ gì về việc ngân hàng cần phải hạ lãi suất cho vay, nới lỏng các tiêu chí tiếp cận tín dụng để khơi thông dòng vốn cho doanh nghiệp?

Để kịp thời hỗ trợ nền kinh tế trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh, trong năm 2020 NHNN đã điều chỉnh giảm 3 lần đồng bộ các mức lãi suất với quy mô tương đối lớn, với tổng mức giảm từ 1,5 - 2%/năm lãi suất điều hành. Từ đầu năm 2021 đến nay, NHNN vẫn giữ nguyên các mức lãi suất điều hành này tạo điều kiện cho các NHTM tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp, qua đó có điều kiện giảm lãi suất cho vay.

Theo đó các NHTM điều chỉnh lãi suất đầu vào/ đầu ra phù hợp với thị trường và tình hình hoạt động của các NHTM. Việc hạ lãi suất cho vay mà đặc biệt trong lúc này cũng là biện pháp điều hành linh hoạt phù hợp, nhằm mở rộng tín dụng, tập trung vốn cho vay đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ.

Các NHTM đánh giá địa bàn khu vực, ngành nghề, đối tượng cụ thể để có định hướng tín dụng phù hợp với khẩu vị rủi ro của từng NHTM, trên cơ sở đó ban hành các chính sách/sản phẩm tín dụng, cụ thể hóa các tiêu chí điều kiện tín dụng để tiếp cận tín dụng đáp ứng nhu cầu hợp pháp của người vay. Ví dụ: các chính sách cho vay dành cho khách hàng doanh nghiệp lớn/ vừa và nhỏ/ khoa học công nghệ. Kèm theo đó là những gói chương trình ưu đãi lãi suất. Theo đó dòng vốn sẽ được khơi thông và nhu cầu vốn sẽ được đáp ứng, vẫn kiểm soát được rủi ro, đảm bảo an toàn hoạt động.

Hơn ai hết, các ngân hàng cần phải hiểu rằng tác động của đại dịch đến lợi nhuận và hoạt động của họ thường có độ trễ. Khi giãn cách xã hội, hầu như các doanh nghiệp, nhà xưởng đều phải đóng cửa, số mở cửa thì hoạt động cầm chừng. Tuy nhiên, do đặc thù là ngành dịch vụ và là hoạt động thiết yếu nên các ngân hàng vẫn tổ chức hoạt động được khi xã hội giãn cách. Nhưng nếu thời gian giãn cách kéo dài, sức khỏe tài chính của các doanh nghiệp kiệt quệ thì lúc này lợi nhuận của ngân hàng mới thực sự bị ảnh hưởng.

Khi các doanh nghiệp không còn đủ khả năng trả nợ, nợ xấu sẽ tăng và trực tiếp làm sụt giảm lợi nhuận của ngân hàng. Cho nên việc các ngân hàng hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp lúc này không chỉ nhằm giúp doanh nghiệp vượt qua cú sốc khủng hoảng mà còn giúp chính các ngân hàng bảo toàn được lợi nhuận trong tương lai của họ.

Việc nới lỏng các tiêu chí tiếp cận tín dụng cần phải được xem xét một cách thận trọng. Khơi thông dòng vốn, hạ lãi suất cho vay không nên đánh đồng với việc cho vay tràn lan và cho vay dưới chuẩn. Việc bơm vốn cần phải được thực hiện mạnh mẽ để vực dậy nền kinh tế sau đại dịch.

Tuy nhiên, dòng vốn này phải được chảy về các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thiết yếu và ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ và NHNN. Nhưng việc này cũng không có nghĩa là các NHTM nên nới lỏng các tiêu chí cho vay đối với các khách hàng, do dòng vốn có thể được hướng đến các lĩnh vực mang tính chất đầu cơ và không thực sự mang lại giá trị cho nền kinh tế. Kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng trước đây đã cho thấy hậu quả của việc cho vay dưới chuẩn (Khủng hoảng kinh tế tài chính 2008) và hướng dòng vốn vào các lĩnh vực không cần thiết (bóng bóng bất động sản ở Việt Nam giai đoạn 2007-2011).

Xin cảm ơn ông!

Thời báo ngân hàng


Tìm Đại lý phân phối, Nhà cung cấp nổi bật